Chùa Ba Đồn – nơi an nghỉ của hàng vạn con người xấu số
Huế từng được mệnh danh là kinh đô Phật giáo, bởi có mật độ chùa chiền, tự viện khá dày đặc. Trong đó có nhiều Tổ đình, cổ tự hết sức nổi tiếng như Thiên Mụ, Từ Đàm, Báo Quốc, Từ Hiếu, Vạn Phước, Thuyền Tôn… Nhưng có một ngôi chùa đặc biệt mà nếu có dịp đến Huế, bạn không nên bỏ lỡ – Chùa Ba Đồn.
- Kế Hoạch Du Lịch Huế – Đi Đâu và Ăn Gì?
- Những Trải Nghiệm Phải Thử Khi Du Lịch Huế
- Lịch trình rong ruổi Huế 2 Ngày 1 Đêm
- Lịch trình khám phá ẩm thực xứ Huế 2 ngày 1 đêm
- Lịch trình trải nghiệm Huế 2 ngày 1 đêm
Chùa Ba Đồn nằm ở đâu?
Chùa Ba Đồn nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km. Chùa tọa lạc bên đường Tam Thai, ngay trên đường từ đàn Nam Giao đi về hướng nghĩa trang thành phố. Chùa thuộc ấp Tứ Tây, phường An Tây, Tp. Huế.
Chùa Ba Đồn đã chứng kiến qua nhiều thăng trầm của lịch sử. Bởi đây là nơi an nghỉ của hàng vạn con người xấu số – một khu mộ hợp táng được cho rằng lớn nhất nước. Đặc biệt, chùa do các phổ (phường nghề) tự lập. Những người giữ chùa là những người “bán thế xuất gia” (vẫn có gia đình) và không có tu sĩ như các chùa khác.
Lịch sử chùa Ba Đồn
Trước kia nơi đây không phải là chùa, mà chỉ là một bãi đất trống được dùng làm cồn mồ chôn cất những người đã chết, không nơi nương tựa trong các giai đoạn chính của lịch sử.
Gồm có 3 khu nghĩa địa chính
Ba nghĩa địa chính trong khuôn viên chùa Ba Đồn rộng hàng vạn mét vuông, chôn hàng ngàn người chết. Theo ông Phạm Nguyên (72 tuổi, đời thứ 3 sống trong chùa Ba Đồn). Chùa có Tam đàn ngũ trảu (Ba nghĩa địa lớn, năm nghĩa địa nhỏ – PV).
“Có khoảng 10.000 âm hồn, đồn thứ nhất có 3.800, đồn thứ hai có 3.700, đồn thứ 3 có 2.550 mồ. Còn ngũ trảu thì không biết số lượng cụ thể”, ông Nguyên cho biết.
Di dời mộ khi xây dựng Kinh Thành Huế
Năm 1803, vua Gia Long đã cho di dời 8 ngôi làng nhỏ nằm ở phía Bắc của sông Hương. Khu vực cồn mồ của 8 làng cũng được di dời. Với những mồ mả không có thân nhân đến nhận thì triều đình cho tiến hành việc quy tập. Tất cả đem lên vùng rừng núi phía Tây Nam của thành phố. Nay là xóm Hành, thuộc thôn Tứ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế. Triều đình cho lập văn bia cho các ngôi mộ này vào 07/03/1803 và ghi rõ: “Ân Tứ Hiệp Táng Vô Tự Chi Mộ” (nghĩa là nơi an táng những người chết không nơi nương tựa). Người dân nơi đây vẫn thường gọi là “cồn mồ 8 làng”.
Đến năm 1835, vua Minh Mạng cho lập một bàn thờ ở giữa trời (đàn) tại cồn mồ 8 làng. Để hằng năm tổ chức cúng tế những cô hồn của 8 làng. Về sau, cho dựng thêm hai đàn nữa để cúng tế tại cồn mồ thứ hai và thứ ba. Dân chúng gọi ba cồn mồ có ba đàn đó là Cồn mồ Ba Đàn (Ba Đồn).
Đau thương ngày thất thủ Kinh đô
Sau ngày thất thủ Kinh đô (23 tháng 5 Ất dậu, 1885), thực dân Pháp đánh chiếm Huế. Dân chúng và binh lính trong Thành đạp nhau chạy theo vua ra các cửa Nhà Đồ, cửa Hữu. Hàng ngàn người đã chết. Lúc đầu người chết được dập hai bên lề đường và ngay trong các vườn nhà chung quanh. Về sau người Pháp “giăng giây thép hoạ địa đồ nước Nam” bắt dân chúng phải cất bốc hết các mồ mả chôn trong và ngoài Kinh thành. Những mồ vô chủ lại được đưa lên Ba Đồn “hợp táng” hình thành thêm một số Cồn mồ nữa.
Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi miếu xưa đã bị đổ nát rất nhiều. Nhưng nhờ sự đóng góp của bà Nguyễn Thị Lựu (bà ngoại của vua Thành Thái), cùng người dân khắp nơi, đặc biệt là người dân địa phương. Ngôi miếu đổ nát năm xưa đã được trùng tu, để ngày nay trở thành nơi cúng tế hàng năm cho dân làng ở Ba Đồn.
Thờ cúng tại miếu Ba Đồn
Việc tế lễ cúng bái tại Ba Đồn được các vua từ thời Minh Mạng đến Duy Tân rất chú trọng. Thời Thành Thái rất thiếu thốn thế mà lễ vật hằng năm dùng cho việc tế ở Ba Đồn gồm có ba con lợn, 15 đấu nếp, 45 chén gạo, 15 chén muối và các thứ khác như hương đèn, rượu, cau trầu, đồ vàng bạc bằng giấy. Từ đời Thành Thái – Duy Tân mỗi năm chỉ tế lễ vào ngày Thất thủ Kinh đô 23 tháng 5 âm lịch.
Đối với dân chúng, hằng năm các phổ tổ chức cúng tế vào ngày 16 tháng Giêng (Minh Niên) và ngày 16 tháng Chạp (Tất niên). Sau này, ngoài việc thờ Thánh, miếu thờ thêm các cô hồn đã mất trong biến cố 23 tháng 5 Ất dậu, các Phổ lại tổ chức lễ cúng âm hồn nữa. Lễ cúng âm hồn kéo dài cả tuần lễ, bắt đầu từ ngày 23 tháng 5 cho đến cuối tháng 5. Các Phổ tự chọn ngày tế riêng hoặc hợp tế tùy theo năm.
So với các miếu tại Huế và trên toàn quốc, không nơi nào thờ cúng một số lượng cô hồn đông đảo như miếu Ba Đồn. Do đó miếu Ba Đồn rất linh thiêng, trở thành nơi đoán xăm của bá tánh. Với sự có mặt của các nhà sư, miếu Ba Đồn rước thêm Phật về thờ. Từ đó miếu Ba Đồn dần dần trở thành chùa Ba Đồn.
Những bí ẩn ở chùa Ba Đồn
Chùa Ba Đồn xưa còn gắn liền với những sự tích huyền bí. Bất kể người dân nào dù là lớn hay nhỏ, đều rất thành kính hướng về Ba Đồn.
Sau năm 1975 một vài năm, người dân tập trung về chùa Ba Đồn để đào công trình thủy lợi. Một số thanh niên cắm trại ngủ trên bãi cỏ Đồn 1, nửa đêm họ thấy có người đến đuổi. Các thanh niên này không đi. Hôm sau đi đào thủy lợi, người thì gãy tay, người gãy chân, người bị sốt phải nghỉ việc. Đêm sau lại có người đến đuổi nữa. Các thanh niên sợ quá bèn chạy vào chùa xin ngủ lại, thì không có việc gì. Sáng hôm sau, không thanh niên nào còn dám ở trên Đồn nữa.
Những bí ẩn được giải thích bằng nhiều cách khác nhau
Những thanh niên cứng đầu trong xóm, cứ lên Đồn đá banh đều bị gãy chân, gãy tay. Vì thế mà nhiều đời nay không một người địa phương nào dám đùa trên các Đồn. Trước năm 1975, có một chiếc trực thăng thấy Cồn mồ rộng rãi đáp xuống. Sau đó bay lên không được phải nhờ xe cần cẩu đến cẩu về sân bay Phú Bài.
Đặc biệt, ở các Đồn chỉ có độc nhất một loài cỏ.
Một nhà sư bán thế làm Phật sự ở vùng này giải thích rằng: Các vong linh họ ở dưới đất, chỉ cho loại cỏ chỉ mọc lên để giữ đất chứ không cho bất cứ một loại cây gì có thể sống trên mộ cả.
Cũng có giải thích khác: vì có hàng ngàn xác chết phân hủy sinh ra khí phốt-pho. Khí này rất nóng không có loại cây gì có thể mọc lên được.
Hồi đầu thế kỷ, một người giữ các cồn mồ lại giải thích rằng: ngày xưa người ta rải muối lên Cồn mồ nhiều đến nỗi chẳng còn một cây nào sống được, ngay cả cỏ cũng vậy.
Hiện vật văn hóa chùa Ba Đồn
Chùa Ba Đồn là hậu thân của miếu Ba Đồn, ra đời đã ngót 200 năm. Nhưng qua chiến tranh nên hầu hết các hiện vật cổ của chùa chỉ còn sót lại một số ít.
Chùa Ba Đồn từng có một Đại hồng chung (chuông lớn) và một trống lớn. Đặc biệt trên thân chuông khắc một đoạn ghi bằng tiếng Pháp rằng: “Một nhóm thương nhân đồ sành sứ cổ cúng cho các vong linh thờ tại chùa Ba Đồn”. Ở gian giữa chùa có treo một bức hoành sơn được sơn son thếp vàngo một thương nhân Trung Quốc cúng bái.
Năm 2006, khu di tích lịch sử nghĩa địa và chùa Ba Đồn được công nhận là di tích cấp tỉnh. Khu mộ tập thể này ngày càng thu hút khách du lịch, đặc biệt là các tín đồ tâm linh. Hãy cùng Hành trình du lịch viếng thăm nơi này nhé!
Xem thêm: Chùa Thiền Lâm – kiến trúc kiểu Thái Lan giữa lòng Cố Đô
Người viết: Trang Yết